Hỏa tượng

Tam Hùng Gia Định truyện

Những bụi xương rồng trổ hoa trong cái nắng cháy rang, nắng gió càng khắc nghiệt, hoa càng đẹp lạ lùng. Người anh đặt tay lên đốc kiếm trầm ngâm:

– Em gái, em có biết vì sao quanh đây chỉ có xương rồng và cỏ gai không?

– Vì xương rồng là loài cây mạnh mẽ, chịu đựng được khô hạn, cằn cỗi phải không anh?

Nàng, một cô bé có vóc dáng nhỏ nhắn ngẩng đầu nhìn anh mình. Chàng trai chỉ mỉm cười rất nhẹ, ngoài kia những cơn sóng nhấp nhô và biển trời xanh ngắt:

– Không ai sinh ra đã mạnh mẽ sẵn đâu em à… Xương rồng sở dĩ tồn tại được vì nó có thể biến đổi… Nó thật sự muốn sống ở nơi này.

Chàng trai không nói nữa, mãi dừng lại ở đó, cây cỏ cũng có ý chí ư? Nghe thật buồn cười. Nàng níu tay bảo anh mình dạy tiếp bài kiếm thuật còn dang dở. Mặt trời lăn tròn rồi chìm vào khoảng không mênh mông. Và ngọn tháp xa xa, hiện lên dưới trăng mờ.

*

Chém giết, chiến tranh, chém giết. Nó đang diễn ra ngày ngày, trên mảnh đất này. Hỏa hổ cháy ran thiêu cháy những bụi xương rồng nhỏ. Voi giày xéo lên thây người. Hết ông vua này, đến ông chúa kia bị hạ bệ, bị tru diệt cả gia tộc. Hết vị hào kiệt này, đến kẻ gian hùng kia bị kéo vào vũng lầy, ngập ngụa bởi máu tanh. Phú Xuân thành đống đổ nát, Thăng Long tiêu điều, Hội An, Cù Lao Phố hóa tàn tro. Không còn gì cả, đất nước nhỏ bé này. Không còn gì cả. Rệu rã, chia cắt, hận thù, tang thương.

Nàng cứ nhớ mãi buổi chiều hôm đó, khi anh trai mình, Bình Tây đại đô đốc Châu Văn Tiếp nhảy qua thuyền Tây Sơn, định tốc chiến giết tướng địch, nhưng cuối cùng bị Chưởng cơ Bảo đâm ngang sườn, rơi xuống dòng sông Măng Thít đỏ ngầu. Lá cờ “Lương Sơn tá quốc” gãy ngang. Nàng bị kẹt giữa vòng vây, không thể xông tới ứng cứu anh mình. Không ai có thể cứu ai cả. Không thể.

Quân Đông Sơn tan rã, quân Lương Sơn bị tiêu diệt trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút sau đó. Những con người này, phải đi về đâu? Chúa Nguyễn ư? Trung hưng ư? Đã kết thúc rồi. Nàng xoay đầu nhìn đất nước lần cuối, chân mây dịu vợi, cơn sóng mỏi mòn quanh ván thuyền mục vỡ. Có gì chờ đợi nàng phía hoàng hôn tàn úa kia?

*

Nàng gào thét trong cơn mơ. Giữa nơi xa lạ này. Nàng ngồi bật dậy, nhìn ra ô cửa trống vắng.

Nàng đi loanh quanh thành Vọng Các, nhìn con người với đôi mắt trơ trơ, vô cảm. Có ai đó đang bám theo nàng. Một kẻ vấn tóc và lúc nào cũng choàng khăn chéo ngang mặt.

Phố xá lộn xộn, người Thái và người Đường hối hả thu dọn hàng hóa. Hôm nay là ngày cuối cùng thuyền bè có thể ra khơi. Qua ngày mai, tất cả các tuyến đường thủy bộ đều bị phong tỏa.

Không ai chú ý đến nàng, binh lính, dân phu bận bịu gia cố lại thành trì. Những bờ tường trắng tinh vấy bẩn, chất chồng súng pháo.

Cuối cùng nàng đi ra bến sông, trống trải. Một con chiến mã ai đó cột sẵn dưới gốc cây già. Nàng lặng lẽ vuốt ve bờm ngựa. Kẻ bám theo nàng cũng vừa tới. Hắn thở dài ngồi xuống triền đê.

Thuyền bè ngược xuôi qua lại và con nước đang dâng tràn. Sóng lăn tăn dịu vợi. Nàng chẳng muốn nói gì với người đàn ông bên cạnh mình. Chẳng muốn nói thêm lời nào nữa.

– Đủ rồi Muội Nương, em phải ở yên đây, đợi ta về!

– Đợi anh về… Thật nực cười Bình Tây đại đô đốc ạ, chính ta đã khuyên các anh dù có chết cũng phải chết ở quê nhà, vậy mà…

– Vì nghiệp lớn chúng phải cắn răng chịu đựng những gian khổ, tủi nhục này.

Nàng nhếch cười cay đắng, tay vẫn vịn hờ lên chuôi kiếm lạnh lẽo:

– Đàn ông các anh lúc nào cũng nói vì nghiệp lớn… Đúng rồi vì nghiệp lớn mà anh Tiếp bất chấp bị người đời sỉ vả, cầu viện quân Xiêm, để cuối cùng bị giết trên sông Măng Thít… Hừ, trung nghĩa, nghiệp lớn, ta không nuốt nổi mớ khẩu khí này của các anh!

– Em không hiểu… Đôi lúc phải bất chấp tất cả vì cơ nghiệp của chúa Nguyễn!

– Đủ rồi Bình Tây đại đô đốc, đủ rồi Lê Văn Quân!

Nàng đứng bật dậy, từ tốn sửa giáp choàng và kiểm tra song kiếm đeo bên hông, Lê Văn Quân ngẩng đầu dõi theo nàng. Ngoài kia những chiến thuyền của quân Xiêm vừa rời cảng, nối đuôi nhau di chuyển trên sông như bầy cá vượt cạn:

– Muội Nương dừng lại!

– Không… Chẳng còn nhà để về nữa… Quân Lương Sơn đã chết hết rồi… Châu Doãn Chữ, Châu Doãn Ngạch, Châu Doãn Chấn, Châu Doãn Húc… Họ thật may mắn vì được chết trên quê nhà… Chỉ còn mình ta, Châu Muội Nương, kẻ cuối cùng của quân Lương Sơn, đành phải bỏ xác nơi đất khách quê người… Thật cay đắng!

Thật cay đắng, lời nàng buông ra như than thở, Muội Nương phất tấm áo choàng điềm nhiên bước đi, lướt qua người chồng của mình, men theo những bờ tường thành Vọng Các, đất Xiêm La, mùa lũ lụt. Nàng trèo lên lưng ngựa, cứ tung vó nhằm thẳng hướng Bắc hoang vu.

Con sông tràn bờ ngập úng hết đồng ruộng, thật giống khung cảnh nơi quê nhà. Thật khiến lòng người nhói đau. Quân Miến Điện đang tràn xuống như vũ bão. Chín đạo quân chia nhau đánh phá khắp nơi không thể biết đâu là chủ lực, đâu là kế nghi binh của chúng. Vua Xiêm La, Rama I đã có kế hoạch của mình, chúa Nguyễn Phúc Ánh cũng tình nguyện đem chút ít binh bại, tướng tàn giúp sức. Thật nực cười, nhưng nàng cười không nổi, chỉ biết men theo dòng sông rộng lớn này, muốn tìm một nơi yên bình để chết.

Xa xa tiếng ngựa voi ầm ĩ, chiến tranh ở đâu đây, trong kí ức. Đồng bằng sông Mê Nam bát ngát vô tận, một cây bồ đề khổng lồ ngã vùi xuống bến sông, đây là viên ngọc quý nằm giữa hai vùng biển lớn. Viên ngọc quý, lương thực dồi dào, dân cư đông đúc, sông ngòi chằng chịt trĩu nặng phù sa, và một vị trí đắc địa có thể mở rất nhiều thương cảng sầm uất. Trong vòng vài trăm năm, người Miến Điện liên tục đem quân chinh phạt Xiêm La, hai dân tộc xem nhau như kẻ thù truyền kiếp, chém giết nhau chẳng nương tay. 

Bình minh vừa ló dạng, nước đầy rồi vơi, cánh chim chao đảo giữa bầu không.

Mặt trời tàn rồi nở rộ thêm lần nữa, bao nhiêu làng mạc nàng đã qua, bao nhiêu thành trấn bỏ lại sau lưng người. Nàng muốn tìm một ngọn núi nhỏ thôi, giống như núi Tà Lương quê nhà. Để được chết. Một cái chết bình yên giản dị.

Nghe đâu có một đạo quân Miến Điện sẽ men theo sông Mê Nam[1] đánh thẳng xuống thành Vọng Các, những đoàn người bồng bế nhau di tản, trâu ngựa xem lẫn với hàng hóa. Lúc nhỏ nàng từng theo chân các anh buôn bán khắp chân trời, Gia Định, Hà Tiên, Nam Vang, Vọng Các… Tiếng Chân Lạp, tiếng Vạn Tượng, tiếng Xiêm La nàng đều biết chút ít. Núi Tà Lương là một trong những trại giàu có nhất xứ Nam Hà thời kì đó, nghĩa dũng tụ hợp hơn ngàn người, sánh ngang với Tây Sơn đất Bình Định. Nhưng giờ còn đâu nữa. Chỉ một bước đi sai lầm mà cơ nghiệp của dòng họ Châu hóa thành tro khói.

Tro tàn dưới vó ngựa, khi nàng giật mình nhận ra thì trời đã sụp tối. Nàng đang ở đâu thế này, sương khói mơ hồ, ánh tá xiên xiên.

Những cánh đồng lúa không còn, không còn nữa. Cây cối tuyệt diệt. Nàng ngẩng đầu nhìn quang cảnh trước mặt. Một khoảng trống hỗn độn và nhập nhoạng như địa ngục. Một bãi sình lầy trộn lẫn đất đá, tro than. Những viên gạch bị cố tình đập nát đến không thể nào nhận ra hình thù. Và nền mống khổng lồ này là gì, cung điện ư? Một tòa lâu đài đã mất? Một ngôi chùa chỉ còn bức tượng Phật bị xẻ ra thành tám mảnh.

– Người khách lạ đang tìm gì giữa chốn hoang tàn này?

Một giọng nói ồm ồm đánh thức Muội Nương, người con gái giật mình thức dậy, nàng tuốt thanh kiếm chỉa về phía trước như phản xạ tự nhiên. Trời tối u và chỉ còn những con đom đóm nhảy múa trên đầm lầy. À, thì ra chỉ là một ông lão râu tóc bạc phơ, dáng người già cõi đến héo hon:

– Tôi muốn tìm một nơi yên bình để chết! – Nàng thở dài.

– Ở đây đã có quá nhiều người chết rồi, đừng khuấy động giấc mơ của họ!

– Ở đây? – Nàng chau mày, cố nhìn vào đôi mắt đục ngầu của ông lão.

– Thành Ayuthaya, Kinh đô của triều đại Ayuthaya huyền thoại… Thương nhân từ khắp nơi trên thế giới đều đến đây buôn bán tấp nập, những người theo đạo Phật, những người theo đạo Khổng, những người tôn sùng Thần giáo, những thương nhân Thiên Chúa giáo, những người theo Hồi giáo, ai cũng được mở thương cuộc ngoài thành. Có những vị học giả da trắng được nhà vua phong quan, tấn tước. Những nhà thơ say sưa sáng tác. Những người thợ hăng hái xây dựng. Điêu khắc, mỹ thuật, văn học, kiến trúc đều phát triển đến đỉnh cao rực rỡ… Nhưng một ngày chúng kéo đến, bằng dã tâm và bạo lực tuyệt đối, chúng kéo đến, mang bệnh dịch, hỏa hoạn trút xuống thành phố tươi đẹp này. Chúng bao vây, để thành phố chết đói, một cách từ từ, chết đói. Khi cổng thành mở ra, chúng đã tràn vào và tàn sát tất cả, đốt phá tất cả, đập nát đến viên gạch cuối cùng…

– Ông là ai? – Nàng muốn nhìn rõ gương mặt ông lão hơn nhưng không thể.

– Ta chỉ là một người quét chùa và giữ mộ cho các vị vua, ta không thể đi, người khách lạ biết đó, ta không thể rời bỏ trách nhiệm của mình…

Tiếng gà rừng đâu đây. Nàng giật mình choàng dậy, một màn sương mờ ảo tan ra rồi biến mất, nắng ấm vừa lên. Thì ra đêm qua nàng dựa vào gốc bồ đề này ngủ quên. Co ro trong tấm áo choàng nguyệt bạch. Nàng trèo lên ngựa đi một vòng quanh gốc cây cổ thụ, có gì đó ẩn trong hốc cây, một bức tượng ư? Nàng tròn xoe mắt ngạc nhiên. Và ngón tay của tượng Phật đang chỉ về phía Tây. Được rồi, duyên hay nghiệp nàng không cần biết, nàng sẽ đi theo hướng Tây. Đi theo số mệnh đã an bày.

*

Có một thành trấn cách tàn tích của Ayuthaya không xa, mặt trời chêch chếch lên cao, nàng nhìn những lũy đất quanh co cắm đầy tre nhọn. Chông tre tủa tủa bên ngoài, lại có hào sâu và sông ngòi bao bọc tứ phía, quả là người ở đây đã chuẩn bị sẵn sàng để chống đỡ giặc Miến Điện. 

Bọn lính canh trên mặt lũy hét loạn lên khi thấy nàng ngang nhiên cưỡi ngựa ngoài kia. Nàng ngần ngừ một chút rồi tung áo choàng bước xuống, bùn lầy sền sệt xung quanh dính đẫm đến nửa gót giày.

– Người Khách lạ là ai?

Nàng không nói gì, chỉ giơ tấm thẻ bài bằng bạc có huy hiệu của triều Chakri lên cao. Tên lính canh hốt hoảng chạy vào, và một lúc sau có mấy người lục tục kéo ra, nhìn cách ăn mặc, giáp phục có lẽ là tướng chỉ huy chiến lũy:

– Thì ra là viện binh của Phật vương[2] cử đến, nhưng tại sao là…

– Một cô gái?

– Người Đại Việt ư?

– Lại chỉ có một mình nữa chứ?

Bọn họ cứ xôn xao bàn tán không biết rằng nàng vốn hiểu hết tiếng Thái. Nhưng nàng không để tâm, Muội Nương vuốt ve bờm ngựa rồi thản nhiên đi một mạch vào khu lũy, để đám người đó chưng hửng chẳng biết nên cư xử thế nào:

– Ta đến đây để chết, và hãy quên chuyện viện binh đi!

Bọn họ bố trí nàng ở tạm trong một căn nhà sàn cách lũy chính không xa. Tuy gọi là chiến lũy nhỏ, nhưng cũng được vũ trang súng ống, đại pháo hẳn hoi, đám dân quân thì vô cùng khẩn trương chuẩn bị binh khí, cung tên. Lâu lâu từng đoàn người, đoàn lính hối hả tuần phòng qua lại.

Nàng không để tâm, rũ bỏ tấm áo choàng dính đầy bùn lầy và tro tàn, khẽ treo giáp nhẹ cùng binh khí lên sào tre, nàng muốn tắm rửa một chút để thư giãn sau chuyến hành trình dài. Và gội đầu bằng mớ lá thơm tho nàng vừa hái bên bìa rừng.

Ngày cứ ồn ã trôi qua như thế, màn đêm buông xuống, chiến lũy sáng rực trong ánh đuốc dầu. Trận chiến đang gần kề. Nàng cứ ngồi mãi nơi hiên nhà, tỉ mẩn mài đôi song kiếm của mình. Nó đã theo nàng từ lúc tấm bé. Từ cái thuở nàng háo hức học võ nghệ do một người thầy ẩn dật truyền dạy, cả núi Tà Lương không ai biết tên thầy. Muội Nương ham học hơn hẳn mấy người anh của mình, siêng năng luyện kiếm từ sáng sớm đến chiều tối, có khi thầy cảm bệnh mà nàng vẫn xăm xăm tới nhà, nài nỉ thầy dạy cho bằng được. Rồi một ngày kia thầy biến mất, ngỡ ngàng như lúc xuất hiện.

Cuộc đời cứ trôi dài mãi miết, sau đó là những ngày tháng cùng anh Tiếp bôn ba mọi miền, học hỏi hàng ngàn thứ mới lạ trên đời. Có vui, có buồn, có vất vả, đắng cay. Cuối cùng. Và cuối cùng, chỉ còn lại mình nàng, cô độc, lạc loài nơi đất khách quê người. Nàng bó gối nhìn ngọn lửa ai nhóm vội ngoài kia.

– Nghe nói có khoảng một ngàn quân Miến Điện đột kích xuống đây!

– Một ngàn? – Muội Nương quay sang với gương mặt không chút cảm xúc, lặng nhìn bà lão đang loay hoay dọn cơm.

– Nhưng chúng tôi chỉ có bốn trăm người, và nghe nói triều đình không thể tiếp viện!

– Đúng rồi, quân Miến chia ra rất nhiều đạo đánh tràn khắp nơi, mục đích là nghi binh và làm rối loạn quân Thái, nhưng nhà vua Chakri thông minh của mấy người đã nhận ra mưu đồ trên, nên chỉ đón đánh cánh chủ lực, và mặc kệ tất cả! – Nàng hờ hững nói.

– Vậy là chúng tôi phải tự lo liệu rồi! – Bà lão thở dài.

– Đúng, không ai có thể bảo vệ ai cả, bà biết mà!

– Khi thành Ayuthaya bị vây khốn, chúng tôi đã cầu nguyện tất cả những vị thần, Phật trên trời… Nhưng rốt cuộc chẳng có ai đến giúp chúng tôi… Cuối cùng thành phố bị hủy diệt. Một nhóm người chúng tôi may mắn sống sót đã xây dựng lại nhà cửa ở nơi này. Để rồi số phận thật nghiệt ngã. Mọi thứ sắp bị hủy diệt thêm một lần nữa…

Giọng bà lão buồn tênh, tin được không, giữa lúc chiến loạn này bà lão vẫn chu đáo dọn cho nàng món cơm trắng và thức ăn rất ngon. Nàng thẩn thờ chẳng buồn động đến, cơn gió thổi rì rào quanh những hàng cây xa xa. Những tàn tích u hoài do quân Miến Điện xây dở. Hoang phế và rợn người. 

Cuối cùng nó đã tới, kéo tới, ầm ầm như lũ quét, quân Miến Điện mang theo hỏa hoạn và dịch bệnh. Mang theo dã tâm và bạo lực tuyệt đối. Toàn bộ người ở đây, những người có thể chiến đấu được đều khẩn trương kéo lên mặt lũy chống đỡ giặc mạnh. Súng pháo ầm ĩ đinh tai nhức óc. Nàng co ro trong tấm áo choàng, chẳng buồn đoái hoài đến trận chiến ngoài kia.

Trời hừng sáng, suốt một đêm giằng co chiến sự cũng tạm lắng. Những đám cháy vẫn còn nghi ngút và khói đen đặc. Nàng bình tâm bước ra lan can, nhìn xuống dưới, nhìn loài người và cái chết với con mắt vô ưu. Quá nhiều người đã chết, toàn quân Lương Sơn của nàng đã chết, hàng ngàn, hàng vạn quan quân của chúa Nguyễn đã chết, chết trắng sông, chết đỏ đồng, chết nghẽn cả nước. Bao nhiêu đây thì có xá gì. Có hề gì.

Vẫn như thường lệ, bà lão kia lại mang cơm và thức ăn đến cho nàng.

– Đêm qua một trăm lẻ chín người của chúng tôi đã tử trận để đầy lùi quân địch… Nhưng bọn chúng chưa bỏ cuộc đâu…

Nàng không trả lời bà lão, nàng vẫn nhìn thế gian với đôi mắt vô ưu, vô sầu, vô niệm. Mái tóc nàng cột hờ, buông thả xuống bờ vai. Lâu thật lâu, khi đám binh tàn đi ngang qua căn nhà sàn này, vài tên trong số chúng nhìn nàng với ánh mắt căm giận. Thương binh nằm la liệt bên kia đường, cơn mưa chợt tuôn xuống, biến chiến lũy thành đống bùn lầy nhão nhoẹt và bẩn thỉu. Tìm nơi yên bình để chết ư? Nàng cười nhạt, cuối cùng nàng vẫn chết trong binh lửa, với một mớ hỗn độn do chiến tranh tạo ra.

Khi màn đêm rùng rợn trở lại, khi cơn mưa chưa dứt hạt, quân Miến Điện lại tấn công. Dữ dội hơn, dồn dập hơn, điên cuồng hơn. Pháo gần như đã cạn, họ chém giết nhau trên từng đoạn lũy, từng ụ đất, gào thét cùng sấm sét và mưa dầm. Quăng quật trong bùn lầy, vài đội tiên phong của quân Miến gần như đã ào vào trong, tàn sát điên cuồng. Nhưng cuối cùng các cánh dân quân cũng đánh bật được chúng trở ra. Tiếng binh đao không ngớt suốt đêm mưa. 

Nàng nằm dài trên giường tre, thấp thỏm ôm song kiếm vào lòng.

Trời hửng sáng thêm một lần nữa, nàng ngây người ngồi nhìn xác chết la liệt dưới kia. Thật thần kỳ, chiến lũy nhỏ này vẫn còn trụ vững trước đám quân chính quy Miến Điện, chỉ với mấy trăm dân quân tự tổ chức, tự trang bị. Bà lão hôm nay không đến nữa, nàng định tìm một người để hỏi nhưng ai cũng thất thần, vật vã với cơn đau.

– Đừng tìm nữa, bào lão chết rồi, quân Miến tràn vào chém giết rất nhiều người! – Một tên lính hằn học với nàng.

– Chỉ là một con điếm An Nam, mày nhiều lời với nó làm gì!

Một tên khác gầm lên, không thể hiểu nổi, nàng vốn muốn buông bỏ tất cả, nhưng đột nhiên nổi giận đùng đùng vì câu nói vừa rồi. Người con gái tuốt kiếm, nhanh như chớp, nàng lao xuống đất, đè nghiến tên lính dưới bùn, và chỉa mũi kim loại nhọn hoắc vào cổ hắn:

– Mày vừa nói gì?

–  Một con điếm Đại Việt, bọn An Nam chết bầm!

Hắn vẫn hét lên bất chấp bị uy hiếp tính mạng, ngọn lửa cháy rực trong mắt nàng. Muốn xúc phạm nàng sao cũng được, nhưng dám động đến đất nước, dân tộc, niềm tự hào của nàng, Châu Muội Nương này quyết không tha thứ:

– Mi dám!

– Có gì mà không dám, rõ ràng là biết chiến đấu, rõ ràng có thẻ bài của Phật vương, mà hai ngày nay cứ ở lì trong đó, trơ trơ nhìn cái làng này bị quân giặc giày xéo, các người sống nương nhờ trên đất nước chúng tôi, ăn cơm gạo của chúng tôi mà có thể thản nhiên như vậy sao… Cùng lắm là chết thôi… Đội tượng quân của bọn Miến đang kéo đến… Chúng tôi cũng chẳng thể chống đỡ nổi nữa…

Tên lính nói xong quay mặt nhìn về hướng khác, không thèm đếm xỉa đến nàng. Người con gái ngây ra một lúc lâu như suy ngẫm, rồi từ từ đứng dậy. Cả thế gian xoay vần, nàng thả lỏng cánh tay, thanh kiếm đung đưa chẳng tìm được điểm tựa. Và như thế, mặc những tiếng xì xầm xung quanh, Muội Nương bỏ đi về phía lũy tre sau làng.

Nàng đã đi đâu, nàng làm gì, không ai biết, cũng chẳng ai bận tâm muốn biết. Sau hai ngày giao tranh ác liệt, hơn nửa số chiến binh ở nơi này đã chết. Những đứa bé, những người già, cùng phụ nữ tiếp tục được huy động để chiến đấu đến cùng, để bảo vệ lũy đất ngoài kia. Vì không có đội quân tiếp viện nào hết, vì thần Phật vốn không tồn tại trên cõi trần này. Họ phải tự đấu tranh, chỉ vậy thôi.

Tự đấu tranh, tự vẫy vùng tìm kiếm chút hy vọng mong manh. Những con voi chiến gầm lên và cơn khát máu cháy khô tất cả. Ánh chiều nặng nề, trời vần vũ nghẽn đặc như đêm đen. Từng bước chân voi nện ầm ầm khiến lũy đất muốn đổ sụp, bùn lầy bị kéo tuột xuống dòng sông. Con voi chiến khổng lồ với giáp sắt bên ngoài, với ngà dài cong vút hùng hổ lao lên triền dốc. Quăng quật mọi thứ, đè nghiến những cái thây người. Chông tre vuốt nhọn kia không thể cản bước nó, đôi mắt đỏ ngầu như tử thần. Trên mình voi đám xạ thủ bắn tỉa từng người một, sau lưng voi kẻ địch nối đuôi nhau tiến lên như thác lũ. Đã tan vỡ rồi, những người Thái lần lượt đổ gục trước ánh đao của kẻ thù. Đã tan vỡ rồi sao?

Giọt mưa xiên xiên trên tấm áo choàng, rồi dừng hẳn, tĩnh lặng đến không ngờ. Nàng, người ta gọi nàng là Châu Muội Nương, với thanh kiếm nhuốm lửa đỏ rực, với những bước chân hiên ngang băng qua vùng cỏ cháy, qua xác người, qua giáo gãy cờ xiêu. Nàng xoay kiếm, lửa xoay vòng giết chết một tên giặc Miến. Nàng múa kiếm, lửa đánh bật hai tên khác đang định ùa lên. Chỉ còn vài người tử thủ nơi đây, chỉ còn vài thanh gươm đã mỏi mòn. Nàng vẫn bước tới, dáng người con gái kiêu hùng giữa hàng hàng lớp lớp giáp khiên của kẻ thủ.

Và dừng lại, bóng con voi khổng lồ kia đã đứng trước mặt nàng, vòi nó cong lên định tóm lấy người con gái mỏng manh. Chỉ bằng một cú siết đó, nàng sẽ chết, sẽ như ý nguyện của nàng. Chỉ bằng một cú siết nhẹ của loài quái vật chiến trường. Tên tướng ngồi trên mình voi nhìn nàng nhếch cười, hắn lặng lẽ giương súng về phía người con gái, nhưng hắn không bắn. Hắn đang phân vân xem bị voi xé xác và chết bởi súng đạn, cảnh tượng nào sẽ thú vị hơn. Hắn hạ súng không bắn. Cơ hội của nàng đã đến, Châu Muội Nương lấy ra một đoạn tre dài có phần đầu trông như ống phóng. Thanh gươm rực lửa giơ cao, tất cả đều chỉa về phía bành voi. Chẳng chút do dự, nàng châm ngòi. Chẳng chút đề phòng, tên tướng Miến Điện nghiêng đầu nhìn nàng ngơ ngẩn. Rồi ngọn lửa từ ống tre phún ra, xoáy tròn, rít dài lên, như một con rồng đang khạc lửa, dòng lửa điên cuồng nhảy múa. Tên tướng Miến Điện, toàn bộ đám xạ thủ trên bành voi, rồi cả cái bành voi cháy phừng lên, cháy phừng phực. Chất cháy chảy dài xuống thân voi, rồi đến bộ giáp sắt kia nóng đỏ, cháy đỏ. Con voi rống lên thảm thiết, đau đớn, cuồng loạn, quay đầu chạy ngược trở lại, giày xéo lên đám binh lính đằng sau. Giày xéo lên tất cả, cuối cùng nhào đầu xuống sông, tắt lịm. 

Nàng đứng thẳng người, chút chất cháy cuối cùng loang loáng trên triền đê, bọn lính Miến lùi lại chẳng dám tiến nữa. Xa xa đằng kia vẫn còn sáu con voi chiến hung dữ. Xa xa đằng kia là chân mây đổ bụi. Dân quân người Thái từ từ bước lên, bên cạnh nàng, xung quanh nàng, Châu Muội Nương không nhìn họ, nàng giơ kiếm chỉ về phía chú ngựa của mình:

– Thời gian quá gấp tôi chỉ làm được mười hai ống hỏa hổ thôi, tất cả để trên lưng ngựa đó, nào, đến giờ nướng lũ chim công[3] kiêu ngạo kia rồi…


[1] Sông Chao Phraya.

[2] Vua Rama I.

[3] Chim công: Biểu tượng của vương triều Konbaung, Miến Điện.

#Sử_Văn_Các

Tranh vẽ: Thiện Phước Nguyễn

Nếu bạn thấy dự án của chúng mình ý nghĩa, có thể ủng hộ thêm sách xuất bản tại đây: